Phân loại Đá tự nhiên
Phân loại đá tự nhiên qua các đặc tính vốn có của vật liệu khi sản xuất, thiết kế hay sử dụng sẽ giúp bạn đưa ra lựa chọn đá phù hợp cho từng ứng dụng. Biết về tính chất hóa học của đá cũng như cách chúng được hình thành sẽ cung cấp một số thông tin cơ bản về hoạt động của đá.
Phân loại đá tự nhiên
Đá tự nhiên có thể được chia thành hai loại lớn dựa trên tính chất hóa học của chúng, hoặc thành phần khoáng chất. Đá Calcareous[1] được tạo thành từ canxi cacbonat và có xu hướng dễ bị ảnh hưởng bởi axit, ngay cả những loại nhẹ như nước chanh. Các loại đá calcareous phổ biến bao gồm đá marble (đá cẩm thạch), đá limestone (đá vôi), đá travertine, đá onyx, và đôi khi là các loại đá sandstone (đá sa thạch).
Đá Silic được làm bằng silica hoặc silicates. Những khoáng chất này chiếm gần 95% vỏ trái đất và bao gồm các khoáng chất phổ biến như quartz (thạch anh), fenspat và mica. Đá silic có xu hướng bền và chịu được axit; đá silic bao gồm slate (đá phiến), đá quartzite (đá thạch anh), đá granite (đá hoa cương) và hầu hết các loại đá sandstone (đá sa thạch).
Đá tự nhiên cũng có thể được phân loại theo cách nó được hình thành. Đá Sedimentary (đá trầm tích) được hình thành từ đá đã có từ trước hoặc xác của các sinh vật biển đã từng sống một thời kỳ. Nhiều loại đá trầm tích bắt đầu như trầm tích được mang theo bởi các con sông hoặc sông băng được lắng đọng trong các hồ hoặc đại dương. Các mảnh được “xếp chồng lên nhau” từng lớp; khi bị mắc kẹt và chôn vùi, các mảnh trở nên nén chặt và kết dính với nhau. Các ví dụ phổ biến về đá trầm tích bao gồm đá sandstone và đá limestone.
Đá Metamorphic (đá biến chất) được tạo ra thông qua sự kết hợp của nhiệt, áp suất và thời gian. Đá biến chất ban đầu là đá trầm tích, đá lửa hoặc đá biến chất sớm hơn, nhưng trong một thời gian dài, dưới sức nóng và áp suất mạnh, các tinh thể tự sắp xếp lại hoặc phản ứng với chất lỏng xâm nhập vào đá. Đá biến chất, bao gồm các loại phổ biến như đá schist (đá phiến), đá gneiss, đá thạch anh và đá marble thường đặc hơn và rắn chắc hơn hơn các dạng trước đó của chúng.
Đá Igneous (đá hỏa sinh, đá lửa) có khởi đầu là vật chất nóng chảy có nguồn gốc từ sâu trong lòng đất gần ranh giới mảng kiến tạo. Dung nham tiếp xúc với sức nóng và áp suất lớn, sau đó nguội đi khi nó nổi lên bề mặt. Dung nham nguội rất chậm tạo thành các hạt lớn, trong khi đá mácma nguội nhanh có kết cấu dạng hạt mịn hoặc dạng thủy tinh. Đá hỏa sinh bao gồm đá gabro[2] và đá bazan[3]; nhiều loại trong số này được đưa vào nhóm đá granite vì chúng hoạt động tương tự như đá granite.
Điều này đưa ra một điểm quan trọng. Ngành công nghiệp đá sử dụng các định nghĩa thương mại cho các loại đá phôi quy chuẩn[4]. Mặc dù những điều này chắc chắn trùng lặp với các định nghĩa khoa học và địa chất, nhưng vẫn có một số khác biệt.
Các sự mô tả khoa học chủ yếu tập trung vào vị trí địa lý và thành phần khoáng vật của đá, trong khi các mô tả thương mại tập trung vào khả năng làm việc và hiệu suất chung của đá. Do đó, ngành công nghiệp thương mại phân loại đá tự nhiên đá theo những cách vận hành và hoạt động tương tự. Trong khi ngành công nghiệp đá công nhận tất cả các loại đá, họ hợp nhất chúng chỉ thành 10 nhóm đá: đá granite, đá limestone, đá marble, đá onyx, đá thạch anh, đá sandstone, đá serpentine, đá slate (đá phiến), đá soapstone và đá travertine.
Chúng ta có thể sử dụng hai loại thành phần hóa học (đá vôi và silic) và ba loại hình thành (trầm tích, biến chất và đá lửa) để tạo ra một mạng lưới giúp tổ chức các loại đá khác nhau. Các loại đá trong mỗi danh mục có các thuộc tính thường có thể dự đoán được.
Tất cả các loại đá đều độc đáo; do đó, mong đợi sự thay đổi trong tính chất và hành vi giữa các sản phẩm đá, ngay cả khi chúng cùng loại. Trong khi biến thể này làm cho đá trở thành một vật liệu hấp dẫn và thú vị, nó cũng thêm thách thức. Nghiên cứu là rất quan trọng, vì người thiết kế phải hiểu điểm mạnh, điểm yếu và hạn chế của đá.
Tiêu chí lựa chọn đá tự nhiên
Có một số yếu tố cần xem xét khi thiết kế đá tự nhiên. Điều ầu tiên và rõ ràng nhất là tính thẩm mỹ. Viên đá sẽ giúp đạt được cái nhìn theo mong muốn? Tính thẩm mỹ của một viên đá được xác định bởi các đặc tính vốn có của nó – ví dụ như màu sắc, kích thước thớ và vân – mà còn bởi cách cắt và hoàn thiện. Ví dụ, một lớp hoàn thiện được mài honed hoặc đánh bóng cao sẽ mang lại một cái nhìn tinh tế hơn.
Hiệu quả cũng quan trọng như thẩm mỹ. Đá sẽ hoạt động tốt theo các ứng dụng mong muốn? Ví dụ, nếu đá được sử dụng làm mặt bàn, nó sẽ chống lại vết bẩn và có thể tận dụng để sử dụng dao thép? Nếu được lắp đặt trên mặt ngoài của một tòa nhà, liệu nó có phù hợp với các yếu tố không?
Một điều quan trọng khác nữa là chọn đá theo kích thước và số lượng mong muốn và trong khung thời gian đã định. Vì bản chất đá tự nhiên là một vật liệu nặng, nên tốt hơn là cung cấp nó tại địa phương hoặc khu vực, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được. Một số loại đá được đánh giá cao — chẳng hạn như một số đá marble nhất định — chỉ được tìm thấy ở một vài nơi trên thế giới. Trong một ví dụ khác, hầu hết travertine được sử dụng ở Hoa Kỳ hầu như chỉ được nhập khẩu từ Ý và một vài quốc gia khác, hoặc đá marble trắng Ý của chúng tôi được nhập khẩu từ Ý và đá Jupiter Blue gray, Spider Blue gray chỉ được tìm thấy tại các mỏ khai thác tự nhiên của chúng tôi.
Cuối cùng, chi phí là một yếu tố. Ngay cả khi đá là vật liệu hoàn hảo từ quan điểm thẩm mỹ và hiệu quả, nó có thể không phù hợp với ngân sách của dự án.
Với CB Hitech Stone, chúng tôi cung cấp các loại đá tự nhiên trong nước và nhập khẩu cao cấp, phong phú về chủng loại, màu sắc và vân đá; với khối lượng lớn cho các dự án lớn và các công trình dân dụng. Sản phẩm Đá tự nhiên của chúng tôi cung cấp có thể phù hợp và hoạt động tốt ở các hạng mục khác nhau: tường, sàn, mặt bàn, cầu thang, bậc tam cấp, bậu cửa, mặt bàn countertop, phòng tắm,… . Vì vậy hãy liên hệ với chúng tôi để nhận được tư vấn và báo giá tốt nhất.
Nguồn: Continuing Education Center
CB Hitech Stone | Đá Tự Nhiên CB lược dịch.
[1] Chủ yếu hoặc một phần bao gồm canxi cacbonat, nói cách khác, có chứa vôi hoặc là phấn
[2] Gabro hay gabbro là tên gọi của một nhóm lớn của đá mácma xâm nhập, hạt thô, sẫm màu có thành phần hóa học giống với đá bazan. Các đá xâm nhập sâu được hình thành từ quá trình kết tinh của mácma nóng chảy dưới mặt đất.
[3] Đá bazan là một loại đá mácma phun trào phổ biến, được hình thành từ sự làm nguội nhanh của dung nham bazan khi tiếp xúc hoặc rất gần bề mặt của một hành tinh đá hoặc mặt trăng.
[4] Dimension stone: là đá tự nhiên hoặc đá đã được lựa chọn và hoàn thiện (ví dụ: đẽo, gọt, khoan, mài hoặc khác) theo kích thước hoặc hình dạng cụ thể.